Bài viết này tôi viết theo đặt hàng của Báo SGTT, và đã đăng ngày hôm nay 23/6/2010 dưới cái tựa do báo đặt lại là "Vì sao Tiến sĩ dỏm lọt lưới", ở đây. Còn entry dưới đây, và tựa của entry này, là bản gốc của tôi (hình như ít bị biên tập, chủ yếu cắt bỏ vài chỗ dài dòng thôi).
Thật ra, bài viết này dù đứng tên một mình tôi nhưng đã có sự hỗ trợ tích cực của Khôi (con trai tôi!). Công việc của Khôi đã làm là dựa trên những nhận định mang tính kinh nghiệm (dù là kinh nghiệm của chuyên gia thì vẫn là kinh nghiệm) của tôi, đi tìm các thông tin trên mạng cả bằng tiếng Anh và tiếng Việt, rồi viết bản thảo đầu tiên của bài viết này. Sau đó, tôi đọc lại và sửa lại theo văn phong của chính mình, và chịu trách nhiệm về những phán đoán đã đưa ra trong bài.
Sở dĩ phải làm như vậy là vì mấy ngày qua tôi bận quá, mà đã lỡ nhận lời với báo vì vấn đề có vẻ đang nóng. Viết đại cho nhanh thì cũng xong, nhưng lại ... lỡ mang tiếng "chuyên gia", lại đang làm về quản lý chất lượng, nên không thể ẩu! Vì vậy, phải nhờ Khôi cho kịp hạn đã hứa (mà cũng vẫn hơi trễ).
Để sòng phẳng, và cũng là để động viên, tôi viết thêm những giòng acknowledgement này cho Khôi. Thanks, Khôi, and keep up the good work!
---
Bằng giả, trường ma: Tại sao?
Trong tình hình các trường đại học dỏm đang hoành hành, cung cấp các chương trình đào tạo kém chất lượng cho người học trên khắp thế giới thì việc làm sao xác định được các “xưởng bằng dỏm” (diploma mills hoặc degree mills) có lẽ là mối quan tâm hàng đầu của những ai có nhu cầu và khả năng theo đuổi các chương trình đào tạo quốc tế. Để nhận diện đâu là một xưởng bằng dỏm, có một số yếu tố cần xem xét, đó là “đặc điểm nhân thân” của các trường này, các yêu cầu đối với học viên, và tình trạng kiểm định hoặc vị trí của chúng trong cộng đồng học thuật.
Trước tiên, về đặc điểm nhân thân của các trường dỏm. Hầu hết các xưởng bằng dỏm đều do các công ty tư nhân thành lập, đa số chỉ mới tồn tại từ thập niên 1990 hoặc thậm chí chỉ mới được vài năm. Tuy có tuổi đời rất non như vậy, nhưng những trường này thường cung cấp các chương trình đào tạo ở mọi trình độ, từ cao đẳng, đại học, đến thạc sĩ và tiến sĩ, chưa kể chúng còn cung cấp cả các chương trình đào tạo ngắn hạn, tức “kinh doanh giáo dục” theo đúng nghĩa xấu của từ này.
Một đặc điểm nổi bật của các trường này là chúng thường có tên gọi rất “nổ” nhằm gây ấn tượng với các khách hàng tiềm năng ngây thơ và ít hiểu biết, đặc biệt là khách hàng từ các nước thế giới thứ ba. Những trường này rất thích sử dụng từ “quốc tế”, Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, châu Á, châu Âu, hoặc tên các quốc gia nơi có nền giáo dục đại học danh tiếng như Mỹ, Anh, vv, như trong tên gọi của 2 trường dỏm đang hoạt động tại Việt Nam là International American University (IAU) và Southern Pacific University (SPU). Một khuynh hướng đặt tên khác của các trường này là “nhái” tên các trường đại học danh tiếng, chẳng hạn như ĐH Standford (nhái tên Stanford, không có “d”), hoặc Cambridge International University (trường dỏm, không liên quan gì đến The University of Cambridge là trường “xịn”).
Đính chính lúc 23 giờ tối 24/6/2010: Trong bài viết đầu tiên, tôi có đưa ví dụ Howard và Harvard như một minh họa của khả năng "nhái", nhưng không biết Howard là một trường có tồn tại ở Mỹ và là trường được kiểm định. Nhờ có bạn đọc báo SGTT phản hồi, tôi đã sửa lại, bỏ thí dụ này đi để khỏi vô tình "nhục mạ" trường Howard có thật. Xin lỗi các bạn, và cám ơn bạn Bảo Đoan đã phản hồi.
Một điểm khác rất đáng lưu ý đối với những lò cấp bằng giả này là chúng không có địa chỉ hoặc lại quá nhiều địa chỉ, các hoặc địa chỉ hay thay đổi, thiếu ổn định. Đa số các lò cấp bằng giả này thường có nơi đăng ký hoạt động ở Mỹ (đăc biệt là tiểu bang California, Florida, hoặc Hawaii). Riêng ở Châu Á thì Malaysia đang đươc báo động là một nguồn cung cấp các diploma mills mới nổi, nhắm vào các nước nơi giáo dục đại học đang phát triển nóng như Trung Quốc, Ấn Độ, và Việt Nam.
Tên thì “nổ”, bằng cấp thì đa dạng, trình độ nào cũng có, nhưng các trường này thường có những yêu cầu rất “mềm” đối với người học: không đòi hỏi tiếng Anh đầu vào, thời gian học ngắn, xét miễn môn học dễ dàng, có thể dựa trên kinh nghiệm làm việc của người học, hoặc các môn học có tên tương tự với những môn học trong chương trình đã học ở trình độ thấp hơn, vv. Học phí của các chương trình này cũng khá mềm so với các trường có tên tuổi. Đáng lưu ý là việc miễn môn học cho người học không liên quan đến học phí cần phải đóng: các trường dỏm này hầu hết đều tính gộp học phí cho toàn bộ chương trình (vd: 8000 USD cho bằng tiến sĩ, 6000 USD cho bằng thạc sĩ, 4000 USD cho bằng đại học) chứ không tính theo từng tín chỉ như các trường chính quy khác.
Về tình trạng kiểm định, các trường đại học dỏm tất nhiên không được kiểm định bởi các cơ quan kiểm định được công nhận. Theo yêu cầu của cơ quan bảo vệ người tiêu dùng của Mỹ, tình trạng kiểm định của các trường đại học Mỹ cần phải được nêu công khai trên trang web của trường. Vì vậy, các xưởng bằng dỏm của Mỹ nếu không/chưa được kiểm định thường nêu rõ tình trạng này trên trang web và hoàn toàn có thể kiểm tra được. Tuy nhiên, để đối phó với tình trạng này, các xưởng bằng dỏm này đã tạo ra những “lò kiểm định dỏm” (accreditation mills) nhằm tung hỏa mù đối với người học. Vì vậy, ngay cả khi một trường đại học có nếu là đã được kiểm định thì vẫn cần phải kiểm tra xem đó có phải là một lò kiểm định dỏm hay không. Có thể kiểm tra danh sách các cơ quan kiểm định chính thức của Mỹ trên trang web của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ (http://www.ed.gov/students/prep/college/diplomamills/index.html), và tìm hiểu thêm thông tin về các lò kiểm định dỏm trên trang của Hội đồng Kiểm định Giáo dục đại học Hoa Kỳ (http://www.chea.org/degreemills/default.htm).
Một câu hỏi có liên quan, và thậm chí còn quan trọng hơn việc xác định được các xưởng bằng giả, là tại sao chúng lại có thể tồn tại và dường như ngày càng phát triển trên khắp thế giới như hiện nay, mà đặc biệt là ở Việt Nam? Theo tôi, câu hỏi này có thể được trả lời dưới các góc độ khác nhau liên quan đến ba đối tượng có liên quan là người học, nhà tuyển dụng lao động, và các các cơ chế kiểm soát của nhà nước.
Trước hết, xét về phía người học, có quy luật luôn luôn đúng là hễ đã có cầu thì sẽ có cung. Hiện nay, nhu cầu học tập ở bậc đại học trên toàn thế giới đang tăng lên dữ dôi; vì vậy các trường dỏm này dễ dàng thu hút“một số cá nhân có mục đích học tập chính đáng nhưng thiếu nguồn thông tin đáng tin cậy để nhận biết các trường dỏm; đồng thời cũng có một số đối tượng cố tình tìm cách kiếm bằng dỏm nhằm phục vụ cho động cơ thăng tiến nhanh chóng về nghề nghiệp cũng như học thuật của mình” (‘Diploma Mills’, World Education Services, http://www.wes.org/ewenr/DiplomaMills.htm).
Riêng tại Việt Nam, từ khi thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới kinh tế, thị trường giáo dục trong nước đã mở rộng và nhu cầu học tập ở một số lãnh vực đã vượt quá khả năng cung cấp của các cơ sở đào tạo trong nước. Điều này đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho các cơ sở đào tạo nước ngoài, cả có thật và không có thật, có chất lượng và kém chất lượng, đổ xô vào Việt Nam nhằm “khai thác” thị trường mới mẻ này, như có thể thấy trong những năm qua. Ngoài ra, tâm lý “sính bằng cấp” và “sính ngoại” rất nặng của người Việt, cùng với sự dễ dãi, xuê xoa và chất lượng thấp của một số cơ sở giáo dục đại học trong nước trong thời gian qua đã khiến cho người học dễ dàng cảm thấy hài lòng với “chất lượng” của những chương trình mình theo học. mặc dù chúng kém xa các chương trình đúng chuẩn mực của các nước tiên tiến mà các trường dỏm cố tình nhập nhằng mạo danh.
Về phía nhà tuyển dụng, kể cả các tổ chức sự nghiệp công, và đáng lo ngại hơn là ngay cả các tổ chức công quyền thì tình trạng cũng tương tự như đối với người học: hoặc không đủ thông tin về các loại bằng cấp dỏm, hoặc có thông tin nhưng cố tình lờ đi vì có đụng chạm đến lợi ích riêng nên không có biện pháp gì. Ngoài ra, ở đây cũng có tâm lý sính bằng cấp và sính ngoại, và đặc biệt trong khu vực công, do việc đánh giá năng lực và hiệu quả của các nhân sự đã tuyển dụng còn rất yếu nên không thể phát hiện và loại trừ những người có bằng cấp “to đùng” nhưng không có năng lực tương ứng.
Về các cơ chế kiểm soát, hiện nay Việt Nam vẫn chưa phát huy được vai trò giám sát thường xuyên của xã hội dân sự (các cơ quan truyền thông, các hội nghề nghiệp, các cơ quan kiểm định độc lập), nên các cơ quan quản lý nhà nước chắc chắn sẽ không thể nào kiểm soát hết được. Quan trọng hơn, những trường hợp vi phạm nếu bị phát hiện thường cũng không bị xử phạt thích đáng, vì thế tác dụng răn đe rất yếu.
Cần phải làm gì? Vấn đề này theo phán đoán của tôi là khá nghiêm trọng ở Việt Nam. Nên chăng nhà nước cần nhanh chóng thành lập một cơ quan thông tin giáo dục công nhằm cung cấp thông tin miễn phí đến mọi đối tượng có yêu cầu nhằm bảo vệ người tiêu dùng giáo dục, như khuyến cáo chung của OECD và UNESCO năm 2007. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng đẩy mạnh việc thành lập các cơ quan kiểm định độc lập nằm ngoài Bộ Giáo dục , và thực hiện kiểm định thường xuyên cho toàn bộ các chương trình liên kết có cấp bằng tại VN mà hiện nay gần như vẫn hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của Bộ Giáo dục, một khi các thủ tục cấp phép ban đầu đã hoàn tất và “lọt lưới.”
----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét